Người thiếu nữ kém may ấy là chị Nguyễn Thị Cúc, ở khu xã 2, phường Đông Giang, TP Đông Hà, tỉnh giấc Quảng Trị.
Vượt qua số phận
Ngôi nhà xây cấp bốn 3 gian, mái ngói đỏ tươi của mái nhà chị Cúc hướng mặt ra con sông Hiếu lịch sử, cách thức bờ sông này chỉ chừng một số chục bước chân người. Khi chúng tôi đến, chị đang vui lòng nói cười bên con gái và đứa cháu ngoại 5 tháng tuổi.
Chị Cúc đứng mà như ngồi; nhị chân cụt gần tới bẹn tì trên hai chiếc đòn càn, mặt chỉ ngang đứa nhỏ được người mẹ trẻ ẵm bồng trên một chiếc ghế gỗ cũ kỹ. "Mời cô, chú sang bàn bên kia uống nước!", chị chỉ tay tham gia chiếc bàn khách đặt ở gian giữa ngôi nhà, bảo với chúng tôi.
Chị Cúc phụ giúp chồng sơn quét chậu hoa cây cảnh để bán cho khách hàng.
Đoạn, chị nói tiếp: "Chị có gì hay đâu mà mấy đứa viết báo. Sau bao không may, khổ cực, may ông trời còn chú ý nên cho chị một cuộc sống chung".
"Chị à, dễ gì sống cuộc sống phổ biến theo đúng nghĩa! Giữa biển người và cuộc sống xô bồ, có khối người tầm thường mà không sống được cuộc sống chung đó thôi. Còn chị thì khác, chị đen đủi mất đi một phần thân thể nhưng chị thật phi thường để có được một cuộc sống phổ biến!", tôi bảo chị Cúc.
Ngẫm một lúc, chị gật đầu đồng ý trò chuyện với chúng tôi. "Cái buổi sáng hôm đó không thể nào quên trong cuộc thế của chị. Là sáng 5-4-1968, chị lúc đó 13 tuổi, học lớp 7, được nhà trường cho nghỉ học vì bận họp giáo viên.
Thấy ba mẹ cuốc đất lam anh em ngoài vườn nên chị cũng ra đó để xem có thể giúp được việc gì. Nhưng khi vừa ra đến, chị chỉ kịp nghe một tiếng nổ long trời lở đất dội lại mà không biết gì thêm nữa", chị Cúc trầm tư mặc tưởng nhớ lại.
"Lúc thức giấc lại, chị thấy chính mình nằm trên một chiếc giường, được phủ ga màu trắng. Chị cố nhúc nhắc để đứng dậy nhưng không còn cảm giác nhì cái chân đâu nữa. Chị hoảng loạn, gọi "mẹ ơi"! Từ bên ngoài, mẹ chị chạy tham gia rất nhanh.
Bà đổ sụp người xuống ôm lấy con run rẩy, nhị hàng nước mắt cứ tuôn ra ướt hết má chị mà không cầm lại được. Chị mù mờ nhận ra, mình đã gặp phải việc rủi ro", chị kể, đôi mắt bỗng nhiên đỏ hoe.
Rồi chị cố rướn người nhìn lên phía bàn thờ, nơi có tấm hình người mẹ. Chị khóc ko phải vì nỗi đau ngày ấy bị mất mát một phần cơ thể, mà khóc vì nỗi đau khổ tận cùng của người mẹ chính mình, lúc đó và cả hàng chục năm sau này.
Bom đạn cướp mất đôi chân đồng nghĩa cướp mất tương lai phía trước của một đứa trẻ. Bởi lẽ, thời bình người cùi cụt đến trường còn chạm chán bao gian nan vất vả, huống là thời chiến, bom đạn rền vang ngày đêm khắp nơi.
Thế nhưng, cô bé dại Nguyễn Thị Cúc đã tự phấn đấu không để nỗi buồn bã của thân phụ, nước mắt của mẹ kéo dài, rơi thêm nữa. Chị bảo với ba bản thân đóng cho nhị chiếc đòn càn để thay vì chỉ nằm ngó ngoáy xưa nay trên giường, chị có thể nâng thân thể vận động.
Chị Cúc di chuyển bằng cách bám nhị bàn tay vào nhì chiếc đòn càn. Dùng tay bên này chống nâng cái chân cụt phía bên kia tiến lên và tì tham gia chiếc đòn càn đó. Chấm dứt, tay bên kia chống nâng quay về cái chân cụt phía bên này tiến lên…
Cứ như thế, chị kiên trì tập trong khoảng ngày này sang ngày khác, từ 04 tuần này qua tháng khác cho tới lúc vận động khá thuần thục và có thể tự trông coi mọi sinh hoạt của phiên bản thân.
Chị Cúc khoe những tấm huy chương do bản thân cố gắng đoạt được.
Chuyển di được khiến chị rất vui. Nhưng sau khi thoát ra được "trái đất" chỉ là chiếc giường con và khoảng sân nhà chật chội, nhìn bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường trên con đường làng ngang qua trước mặt nhà bản thân mình, chị lại cảm giác một nỗi bi hùng tê tái.
"Nhưng mình chẳng thể để ba mẹ phải buồn thêm dù chỉ một ngày nào nữa. Chính mình khăng khăng phải khiến cho được một việc gì đó có thể tự nuôi sống phiên bản thân, để khi ba mẹ về già không còn phải lo ngại cho bản thân", chị cắn chặt môi quyết tâm.
Ngày hôm đó, sau bữa cơm chiều, chị quyết định nói lên phấn đấu ấy: "Ba mẹ ơi, con muốn tự học may. Yếu tố con cần nhất ở ba mẹ là sự đồng ý và lời cổ vũ!". Người thân phụ ủ ấp con gái vào lòng, nhị hàng nước mắt ông cứ thế trào ra. "Ừ, ba mẹ sẽ luôn ở bên con, giúp cho con thi hành bằng được ước muốn của chính mình!". ông cảm động nói với con gái.
Êm ấm ngọt ngào
Năm 1983, nhà ba mẹ chị Cúc có những cán bộ, người lao động làm cho công việc đo thủy chí trên dòng sông Hiếu thường lui đến. Họ uống nước trà, rỉ tai cùng ông bà tham gia những lúc cuối ngày.
Trong số họ có tuổi teen Trương Công Bá, quê ở tỉnh giấc Thừa Thiên - Huế, là lính chuyển ngành. Điều lạ, anh này không nghiện uống nước trà nhưng lại xuất hiện nhiều lần hơn những người khác.
"Anh Bá lúc đó lạ lắm! Anh ngồi thì thầm với ba mẹ chị nhưng mắt cứ nhìn chằm chằm tham gia việc chị làm. Thấy vậy, có lần chị quyết định hỏi anh ấy: "Anh Bá này, có phải anh chưa khi nào thấy việc may quần áo?!".
Xem tại: Me don than
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét